Powered by RND
PodcastsTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Latest episode

Available Episodes

5 of 48
  • Giải quyết tình trạng ngập lụt đô thị Việt Nam: Quy hoạch đồng bộ và thêm không gian xanh
    Một phần do tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng ngập lụt đang trở nên thường xuyên hơn và trầm trọng hơn ở các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu như bất cứ cơn mưa lớn nào cũng có thể biến đường phố thành sông hồ, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến đời sống người dân.  Đặc biệt là hai đợt mưa lớn cuối tháng 9 và đầu tháng 10 vừa qua đã khiến Hà Nội bị ngập nước ở rất nhiều điểm, có nơi bị ngập đến vài ngày, khiến giao thông tê liệt. Đâu là những nguyên nhân của tình trạng này? Những giải pháp nào thật sự hiệu quả để giải quyết tận gốc vấn đề? Trong chương trình hôm nay mời quý vị nghe ý kiến của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Việt Nam. RFI Việt ngữ hôm nay rất vui mừng được tiếp chuyện với kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn để nói về tình trạng ngập lụt tại các đô thị lớn ở Việt Nam hiện nay. Trước hết theo quan sát của ông, tình trạng ngập lụt ở các đô thị hiện nay đang trở nên trầm trọng như thế nào? Tình trạng ngập lụt ở Việt Nam trong hai năm gần đây ngày càng trầm trọng hơn, một phần là do biến đổi khí hậu, bởi vì có những cơn mưa rất lớn, bình thường là cả chục năm mới có một lần, còn bây giờ thì tần suất thường xuyên hơn. Lượng mưa và độ tăng thủy triều trở nên ngày càng thất thường hơn. Đó là ảnh hưởng chung trên cả thế giới.  Thứ hai là những khu, đặc biệt là những khu đô thị mới, những khu đang xây nhà cao tầng, khi có mưa lớn thì thường là dễ bị ngập. Vừa rồi Hà Nội cũng có một trận ngập cả thành phố rất  lớn, ngay cả sân bay cũng bị ngập. Nói chung là những đô thị lớn tại Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng đều bị ngập và đặc biệt là những khu mới. Mặt khác, do Việt Nam đang có độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, các đô thị là những nơi đang phát triển rất năng động. Ở những đô thị lớn thì có thể nói gần như con đường nào cũng có một vài công trình gì đó đang mọc lên. Rõ ràng là hệ thống thoát nước không theo kịp với cái đà phát triển đô thị. Tức là ở đây, ngoài yếu tố biến đổi khí hậu, theo ông, vấn đề chính phải chăng là do chúng ta quy hoạch không đúng quy cách?  Ở đây cũng không hoàn toàn là do quy hoạch đô thị, mà là do nhiều yếu tố cộng lại. Thứ nhất, việc quy hoạch đô thị thường là có những tiêu chuẩn quy phạm thì mình chưa đổi mới kịp. Những tiêu chuẩn đó chỉ đáp ứng với điều kiện bình thường và khi có những tình huống như vậy, thì rõ ràng là những tiêu chuẩn, tiêu chí để phê duyệt quy hoạch phải được nâng tầm lên, để dự phòng những trường hợp có nguy cơ ngập cực đoan, mình có thể ứng phó với nó.  Đó là một phần thôi, nhưng phần khác cũng khá quan trọng: Việt Nam sau này phát triển theo nền kinh tế thị trường rồi, thành ra những dự án phát triển đô thị không phải luôn luôn dùng vốn của nhà nước, mà đa số những dự án đó là dùng nguồn vốn của tư nhân. Có những trường hợp mà nhà đầu tư thiếu trách nhiệm xã hội. Khi phát triển dự án, họ nhắm đến lợi ích cá nhân nhiều, không coi trọng lợi ích của cộng đồng. Ví dụ như trong một bản quy hoạch khu đô thị mới được phê duyệt, người ta vẽ đầy đủ hết: Công viên, có đường xá, có cống rãnh, có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Nhưng khi đi vào thực hiện thì rất nhiều dự án người ta có lẽ muốn thu lợi nhanh, nên nhà cửa xây xong rồi, bán rồi, người dân dọn vô rồi, mà đường xá kết nối chưa xong, cống rãnh chưa xong, hệ thống hạ tầng xã hội, trường học còn thiếu thốn, dịch vụ thương mại còn thiếu rất nhiều thứ. Thứ hai, với những khu đô thị hiện hữu mà đã ổn định rồi, nếu chúng ta giữ nguyên như vậy thì không sao, ví dụ như khu trung tâm quận 1, quận 3 của Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng do trong quá trình phát triển, người ta lại xây dựng rất nhiều nhà cao tầng vào đó. Mật độ xây dựng, mật độ bê tông hóa rõ ràng tăng lên có thể gấp 5, gấp 10 lần. Tuy nhiên, việc nâng cấp cho hệ thống hạ tầng để đảm đương cho mật độ đó lại không được thực hiện đồng bộ. Như vậy là bản thân những khu chỉnh trang cũng gây ngập. Thành phố Hồ Chí Minh sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, trở thành một siêu đô thị rất là lớn, với quy mô diện tích tăng gấp ba, dân số cũng như quy mô kinh tế tăng gấp rưỡi. Việc quản lý một siêu đô thị 14 triệu dân cũng không phải dễ dàng. Chúng ta đang bị động với một quy mô đô thị ngày càng lớn, đô thị hóa ngày càng tăng. Phải có sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, phối hợp giữa công và tư, phối hợp nhà đầu tư và ngay cả với cư dân đô thị. Mọi người đều cần tham gia trong việc chống ngập. Đối với người dân, cũng có những chuyện nhỏ nhưng mà không nhỏ. Ví dụ như một số người dân có thói quen đổ rác vào những chỗ thoát nước, làm nghẹt cống thoát nước, gây ngập và chính bản thân họ cũng là người bị thiệt hại.  Thưa ông, ngoài vấn đề ông nêu lên, tức là phải có ý thức của cộng đồng nói chung, của các nhà đầu tư, của người dân, hiện nay cứ mỗi lần mưa lớn một chút là đường phố ngập lụt kéo dài nhiều giờ. Như vậy trước mắt chúng ta có những giải pháp gì về mặt xây dựng, ví dụ như có những cống thoát nước nhiều hơn, lớn hơn hoặc những hồ điều tiết để khi nào mưa lớn thì nước rút nhanh hơn? Đầu tiên, tỷ lệ bê tông hóa của các đô thị rất là cao, đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay cao đến mức là tỷ lệ không gian xanh chỉ đạt khoảng nửa mét vuông trên đầu người, trong khi tỷ lệ mà UNESCO đề xuất tối thiểu phải là 10 mét vuông trên đầu người. Những đô thị lớn như Berlin chẳng hạn thì lên tới 40 mét vuông cây xanh trên đầu người và những đô thị khác thì trung bình ít nhất cũng phải 20, 25, 30 mét vuông. Việc đầu tiên đối với các thành phố bị ngập là phải giảm bê tông hóa và tăng không gian xanh. Nói nôm na là mình phải quy hoạch lại để tăng không gian cho nước. Không gian cho nước bao gồm sông, hồ, kênh, rạch phải liên thông với nhau, để thoát nước nhanh. Thứ hai là phải tăng không gian xanh lên, như chúng tôi nói là Thành phố Hồ Chí Minh phải tăng lên ít nhất 20 lần để mà đạt tối thiểu là 10 mét vuông cây xanh trên đầu người. Bí thư mới Trần Lưu Quang cách đây vài ngày cũng vừa có một quyết định rõ ràng là một định hướng mới cho thành phố, đó là về khu đất ven cảng Sài Gòn ngày xưa. Trước đây nhà đầu tư muốn xây một cái bức tường cao ốc ở đây, bởi vì nó có vị trí đẹp, nhìn thẳng ra trung tâm, nhìn ra sông Sài Gòn. Vừa rồi thì bí thư Trần Hữu Quang đã quyết định không cấp phép cho dự án xây cao tầng ở đây nữa, mà biến nó thành một công viên kết hợp với công trình văn hóa cộng cộng. Đây là một quyết định rất là khó khăn, bởi vì người ta hay gọi những khu đất như vậy là đất "vàng" và nhà đầu tư khi đầu tư những dự án lớn như vậy thì họ sẽ đóng góp cho ngân sách cũng không nhỏ. Tuy nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh quá thiếu không gian xanh, nếu như những khu đất này mà không làm thành không gian xanh thì còn ở đâu để làm nữa? Đây rõ ràng là một định hướng rất là bền vững, đáp ứng nhu cầu tăng không gian xanh cho thành phố và tăng không gian văn hóa công cộng cho thành phố.  Làm nhiều công viên cũng rất quan trọng ở chỗ là khi mưa xuống mà mình có nhiều diện tích không gian xanh, thì nước từ khu vực cao xuống khu vực thấp sẽ chảy chậm lại, bởi vì không gian xanh làm chậm tốc độ chảy của nước và làm giảm áp lực nước dồn xuống thấp quá nhanh. Mặt khác nó sẽ thu hút được lượng nước bổ sung cho lượng nước ngầm ở dưới, vừa giúp để cho nước hấp thụ xuống dưới và dần dần chảy ra sông. Nó cũng sẽ tránh được tình trạng sụt lún đất, bởi vì khi nước ngầm ở dưới mà bị cạn, thì nó sẽ tạo những túi không khí ở dưới và gây tình trạng sụt lún đất. Thứ hai, việc tăng không gian cho nước là nạo vét sông, hồ, kênh, rạch. Thành phố cũng đang có ý thức là trả lại những con kênh trước đây. Trước đây, vì muốn thúc đẩy phát triển đô thị, người ta lấp kênh và làm cống hộp ở dưới, nhưng sau này, với nguy cơ ngập thì một số nơi đã đào lại con kênh. Không gian hở của kênh hiệu quả hơn rất nhiều so với không gian cống hộp ở dưới. Đây cũng là điều nên làm: xây dựng những hồ điều tiết, có thể là hồ nổi, kết hợp với cảnh quan và cũng có thể là ngầm, để khi mưa lớn thì mình hút nước vào đó và sau đó mưa tạnh thì dần dần nó thoát ra. Điều đó cũng giảm cho nguy cơ ngập. Bên cạnh đó, về mặt quy hoạch, tôi nghĩ là nên có một chính sách quản lý đô thị nhất quán. Trước đây đôi khi mình buông lỏng, để cho có tình trạng  người ta xây nhà, xây những cao ốc để bán, nhưng thiếu đường xá, thiếu cống rãnh, thiếu hạ tầng. Bây giờ nên chuyển thành một chiến lược mới là hạ tầng phải đi trước, tức là những nhà đầu tư làm những khu đô thị, dù là chỉnh trang hay xây mới, phải bàn giao hạ tầng đảm bảo thì mới được bắt đầu bán những dự án đó. Mình không để cho trách nhiệm xã hội nhà đầu tư một cách tự giác nữa, mà mình phải đưa nó vào luật, bắt buộc là hạ tầng phải đi trước.  Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu thành một đô thị khổng lồ. Phải chăng đây là cơ hội để chính quyền địa phương đề ra những giải pháp rộng lớn hơn để giảm bớt tình trạng ngập lụt? Nhìn trên bản đồ, chúng ta cũng thấy là khu nội thành Thành phố Hồ Chí Minh rất là chen chúc, nhìn trên Google Maps nó trắng xóa hết, bê tông hết, không thấy bao nhiêu không gian xanh. Khi đô thị lớn gấp ba thành siêu đô thị thì đây là cơ hội để khuyến khích giãn dân ra, khuyến khích phát triển về phía Bình Dương, là nơi có thể tạo công ăn việc làm về công nghiệp, công nghệ cao, hay là giãn dân về phía biển là chuỗi đô thị Cần Giờ, Vũng Tàu, Long Hải, Hồ Tràm, những nơi cũng có công ăn việc làm phục vụ du lịch và hiện giờ tỷ lệ bê tông hóa không cao, quỹ đất còn rất nhiều. Khi chúng ta giãn dân ra như vậy, đây cũng là cơ hội để chúng ta nâng tầm chất lượng cho khu nội Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi kỳ vọng là trong 5,10 năm tới, chúng ta sẽ đạt được tiêu chí mà chúng ta đang mong muốn hàng mấy chục năm nay là 10 mét vuông cây xanh trên đầu người. Nó không chỉ giảm ngập mà nó còn giúp nâng cao giá trị của môi trường, tạo cho người dân nhiều không gian để thư giãn, sinh hoạt cộng đồng và cải thiện chất lượng không khí, không bị tiếng ồn. Không gian xanh rất là quan trọng trong việc tổ chức đô thị. Tôi kỳ vọng là Thành phố Hồ Chí Minh sắp tới sẽ phát triển theo hướng hướng đô thị xanh và bền vững.
    --------  
  • Việt Nam : “Quốc tế hóa” vai trò của tổng bí thư đảng Cộng Sản
    Khoảng 20 chuyến công du đến 20 nước trong vòng hơn một năm giữ chức tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm có lẽ là nhà lãnh đạo đảng công du nước ngoài nhiều nhất. Trong khuôn khổ những chuyến công du này, Việt Nam nâng cấp Đối tác Chiến lược Toàn diện với 6 nước, và Đối tác Chiến lược với 5 nước khác. Dưới thời ông Tô Lâm, Việt Nam đang “quốc tế hóa” vai trò của tổng bí thư. Khi đưa tin về chuyến công du Anh Quốc và Bắc Ireland của ông Tô Lâm, từ 28-30/10/2025, hãng tin Anh Reuters nhận định nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Việt Nam, ông Tô Lâm, đã đóng vai trò trung tâm trong việc định hình chính sách đối ngoại kể từ khi trở thành tổng bí thư đảng Cộng Sản vào năm ngoái (2024), một nỗ lực trước đây do chủ tịch nước và thủ tướng dẫn đầu. Cho thế giới thấy nhà lãnh đạo thực sự ở Việt Nam Ngay sau khi chính thức được bầu làm tổng bí thư, tại buổi họp báo ngày 03/08/2024, ông Tô Lâm có bài phát biểu “khẳng định kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng mà cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các thế hệ lãnh đạo đi trước đã gây dựng”. Điểm này đang được ông Tô Lâm phát triển mạnh mẽ hơn, theo nhận định của giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales : “Tổng bí thư Tô Lâm đang tận dụng sự lãnh đạo của mình để phát huy di sản của người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng, người đã chính thức hóa vai trò của tổng bí thư trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Tổng bí thư Trọng đã được lãnh đạo chính phủ Anh và Nhật Bản, hai nền dân chủ tự do, đón tiếp, và được tổng thống Barack Obama tiếp đón tại Nhà Trắng. Ông Trọng cũng đã tiếp đón tổng thống Joe Biden tại Hà Nội”. Theo thông lệ, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của tân tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam là đến Lào, sau đó là Cam Bốt và Trung Quốc - nước láng giềng rộng lớn mà ngay vào thời kỳ đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam xác định rõ chính sách đối với Trung Quốc “là phải thân thiện”. Tiến sĩ Vũ Khang, học giả thỉnh giảng tại Đại học Boston, Mỹ, nhận định với RFI Tiếng Việt : “Việc Việt Nam quốc tế hóa vai trò của tổng bí thư thực ra không có gì là bất ngờ. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là bảo vệ an ninh của thể chế, và một trong những cách đó là nâng cao vai trò của tổng bí thư trên trường quốc tế. Với các nước chung chí hướng như là Bắc Triều Tiên, Trung Quốc hay Lào thì đây cũng không phải là một sự thay đổi lớn do vai trò của quan hệ kênh Đảng từ lâu đã được khẳng định”. Đọc thêmViệt Nam : Tổng bí thư Tô Lâm thăm Bắc Triều Tiên, dự lễ 80 năm thành lập đảng Lao Động Tiếp theo là hàng loạt vòng công du cho đến cuối năm 2024. Ví dụ, tháng 09/2024, tổng bí thư Tô Lâm đến dự Hội nghị thượng đỉnh Tương Lai, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và làm việc ở Hoa Kỳ. Sau đó, ông công du nước Cuba anh em. Đến đầu tháng 10, ông công du Mông Cổ, tiếp theo là Ireland và Pháp. Đến tháng 11 là Malaysia. Trong những chuyến công du này, Việt Nam nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn Diện với ba nước Mông Cổ, Pháp, Malaysia. Các nước ASEAN mở đầu cho vòng công du năm 2025 của tổng bí thư Tô Lâm. Tháng 03, ông thăm Singapore, Indonesia, nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất với hai nước. Với những hoạt động này, tổng bí thư “đang đảm nhiệm vai trò nhà ngoại giao cấp cao, thường là nhiệm vụ của chủ tịch nước hoặc thủ tướng”, theo ý kiến của giáo sư Zachary Abuza, Đại học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ ở Washington : “Bằng cách này, ông Lâm đã khẳng định rõ ràng rằng ông coi chức vụ quyền lực nhất của đảng Cộng sản Việt Nam là chức vụ có chức năng điều hành trong đảng-nhà nước, điều mà những người tiền nhiệm của ông, những người chỉ tập trung vào chính sách và hệ tư tưởng, chưa từng đảm nhiệm”. Trong tháng 05, ông thăm bốn nước thuộc Liên Xô cũ (Kazakhstan, Azerbaijan, Nga, Belarus), nhân chuyến công du theo lời mời dự Ngày Chiến thắng với lễ diễu binh trên Quảng trường Đỏ ở Matxcơva. Ba tháng sau ông thăm Hàn Quốc. Trong tháng 10/2025, ông Tô Lâm công du Bắc Triều Tiên dự lễ kỷ niệm 80 thành lập đảng Lao Động Triều Tiên, sau đó là vòng công du hai nước châu Âu Phần Lan và Bulgari, cuối cùng là Anh Quốc và Bắc Ireland, nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với Helsinki và đối tác chiến lược toàn diện với Luân Đôn. Có thể thấy ông Tô Lâm quảng bá mạnh hơn, cho quốc tế thấy rõ hơn hình ảnh và vai trò của tổng bí thư - nhà lãnh đạo trên thực tế của Việt Nam, theo nhận định của Giáo sư Carl Thayer ngày 28/09 : “Tổng bí thư Tô Lâm đã liên tiếp công du nước ngoài kể từ khi nắm quyền lãnh đạo đảng và đóng vai trò quan trọng trong việc ký kết bảy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mới (Úc, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore và Thái Lan). Ông Tô Lâm đang chứng minh rằng vị thế tổng bí thư không chỉ quan trọng đối với các vấn đề đối nội mà còn cả đối ngoại”. Đọc thêmLãnh đạo Việt Nam Tô Lâm đi Mỹ dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc Một yếu tố mới, được tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nhận định trên trang Fulcrum ngày 02/07/2025, là vai trò của “Đệ nhất phu nhân” định nghĩa lại nền ngoại giao và chính trị Việt Nam. Bà Ngô Phương Ly, “đệ nhất phu nhân trên thực tế, đã mở đường cho việc tăng cường các nỗ lực ngoại giao của Việt Nam và làm dịu đi hình ảnh của chồng bà” : “Bà Phương Ly, phu nhân của tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm, đang nhanh chóng nổi lên như một nhân vật mang lại sự thay đổi trong ngoại giao quốc tế của Việt Nam. Bà tháp tùng ông Tô Lâm trong hầu hết các chuyến thăm nước ngoài và tiếp đón các nhà lãnh đạo nước ngoài tại Việt Nam. Thông qua việc thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa và xã hội với các đối tác nước ngoài, bà đã nâng cao vị thế ngoại giao của Việt Nam và nâng cao hình ảnh của ông Tô Lâm trước công chúng, qua đó góp phần nâng cao vị thế chính trị của ông. Ví dụ, trong chuyến thăm Singapore của ông Tô Lâm vào tháng 03/2025, bà Phương Ly đã tham gia các cuộc thảo luận về các vấn đề văn hóa với bà Loo Tze Lui, phu nhân thủ tướng Singapore Lawrence Wong, và chứng kiến ​​lễ ký kết Biên bản ghi nhớ giữa Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và Nhạc viện Yong Siew Toh của Singapore. Gần đây hơn, trong chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Pháp Emmanuel Macron tháng 05/2025, bà Phương Ly đã tháp tùng bà Brigitte Macron tham quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Văn Miếu Quốc Tử Giám, chia sẻ những hiểu biết sâu sắc về di sản văn hóa phong phú của Việt Nam với Đệ nhất phu nhân Pháp”. Đọc thêmQuảng bá hình ảnh Việt Nam qua những chuyến công du của lãnh đạo thế giới Vai trò của tổng bí thư trong “định hình chính sách đối ngoại” Ngoài việc khẳng định quyền lực lãnh đạo thực sự ở Việt Nam, những chuyến công du nước ngoài của ông Tô Lâm, với tần suất dày đặc hơn so với người tiền nhiệm, còn nằm trong định hướng Hội nhập quốc tế trong tình hình mới, được quy định trong Nghị quyết số 59 (ngày 24/01/2025) và được cổng thông tin Chính phủ nhấn mạnh ngày 16/09 là “quyết sách quan trọng, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước”. Một mặt, Nghị quyết đưa ra hướng dẫn củng cố mối quan hệ “hữu nghị truyền thống” lâu đời của Việt Nam với Nga, Cuba, Bắc Triều Tiên. Mặt khác, Nghị quyết cũng cho thấy Việt Nam đang chủ động hơn trong các vấn đề quốc tế. Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, phân tích : Nghị quyết số 59 lưu ý rằng hội nhập quốc tế đòi hỏi “chủ động, tích cực và dũng cảm” để thúc đẩy các mạng lưới đối tác đã được thiết lập, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, củng cố lòng tin chính trị và giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu thông qua hợp tác hòa bình, tất cả đều trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Nghị quyết số 59 cũng củng cố một trong những mục tiêu quan trọng của hội nhập quốc tế - duy trì môi trường hòa bình và ổn định để Việt Nam có thể phát triển kinh tế. Ví dụ chuyến công du Bình Nhưỡng của tổng bí thư Tô Lâm cũng được coi là nhằm trong chiến lược “bảo vệ đất nước từ sớm và từ xa, trước khi đất nước lâm nguy” phù hợp với chủ trương của Nghị quyết số 59, theo nhận định của giáo sư Carl Thayer : “Nếu ông Tô Lâm đến thăm Bình Nhưỡng, ông có thể sẽ tìm hiểu xem Việt Nam có thể đóng vai trò ngoại giao và chính trị nào trong bất kỳ tiến trình hòa bình nào trên bán đảo Triều Tiên. Việt Nam có lợi ích thiết yếu trong việc duy trì ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Bất kỳ sự suy giảm nào trong hiện trạng, dẫn đến đối đầu giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Nga, sẽ đẩy Việt Nam ra ngoài lề và gây khó khăn cho quan hệ với các cường quốc”. Đọc thêmTổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm công du Mông Cổ, Ireland và Pháp Trong số 5 quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh được coi là một trong những trụ cột và là “một nội dung rất quan trọng”, theo phát biểu ngày 16/09 của ông Lê Hoài Trung, lúc đó là quyền ngoại trưởng. Ngoài ra, Việt Nam “chuyển từ xin nhận, gia nhập, tham gia sang chủ động đóng góp và xây dựng, định hình và sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm vào công việc chung của cộng động quốc tế”. Sự kiện Hà Nội đăng cai tổ chức Lễ mở ký Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm mạng ngày 25/10/2025, được Việt Nam coi là “dấu mốc lịch sử không chỉ với cộng đồng quốc tế mà còn khẳng định vai trò vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”. Trang VnExpress đưa tin “các nước đánh giá cao vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Việt Nam thông qua sáng kiến đăng cai Lễ mở ký”. Nhân dịp này, tổng bí thư Tô Lâm đã tiếp tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres. Cho dù “hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân” nhưng được thực hiện “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước”. Trong tiến trình này, tổng bí thư không chỉ còn muốn đứng đầu đảng, giữ vai trò về tư tưởng, mà là một nhà lãnh đạo cao nhất đất nước. Hình ảnh mới này đang được ông Tô Lâm làm cho các đối tác phương Tây quen dần, theo nhận định của tiến sĩ Vũ Khang, Đại học Boston : Đối với các đối tác phương Tây, Việt Nam đã đặt các đối tác phương Tây vào vị trí phải công nhận tính chính danh và sự ngang hàng của vị trí tổng bí thư với các vị trí nguyên thủ quốc gia qua các cuộc gặp cấp cao. Đây cũng là một di sản của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ông đã thành công bắt Mỹ phải công nhận tổng bí thư là ngang hàng với chức tổng thống Mỹ, từ đó mở ra các nước phương Tây khác cũng chấp nhận theo. Điều này chứng tỏ đây là một chính sách đường dài chứ không phải ngắn hạn cho kỳ Đại hội Đảng sắp tới, và dù ai ở vị trí tổng bí thư đi chăng nữa thì cũng sẽ được kế thừa di sản này.
    --------  
  • Lịch sử phát triển thành phố Sài Gòn: Dựa trên thế mạnh sông nước
    Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có  hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương,  mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.”  Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng  lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế.  Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này:  “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025,  đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp:  Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng.  Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài.  Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính.  Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn  làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21.  Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn.  Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời  hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.
    --------  
  • Dù muốn nhưng Việt Nam vẫn phải tránh "hợp tác quân sự" với Bắc Triều Tiên
    Quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được “tạo xung lực mới” thông qua chuyến công du Bình Nhưỡng của tổng bí thư Tô Lâm từ ngày 09-11/10/2025 nhưng tạm dừng ở cấp độ chính trị, trao đổi văn hóa và du lịch. Bình Nhưỡng đã phát triển mạnh chương trình tên lửa, kể cả hạt nhân và cho dù có muốn, Hà Nội cũng chỉ dừng ở “ý định thư hợp tác quốc phòng khi điều kiện cho phép”. Bắc Triên Tiên bị Liên Hiệp Quốc trừng phạt vì phát triển chương trình hạt nhân. Còn “Việt Nam không muốn vi phạm các lệnh trừng phạt quốc tế đối với Bắc Triều Tiên” theo nhận định của nhà nghiên cứu Vũ Khang, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Boston (Mỹ), vì Hà Nội đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế trong những thập niên gần đây và không ngừng mở rộng mạng lưới đối tác với các nước phương Tây. Cùng với “ngoại giao cây tre”, Việt Nam thể hiện là “bạn” với tất cả các nước, là một quốc gia trung lập, không chọn phe. Và trong chính sách đối ngoại đa phương, Hà Nội coi Bình Nhưỡng là một đối tác quan trọng. Tuy nhiên, “việc này không đồng nghĩa là Việt Nam ủng hộ chương trình hạt nhân hay chính sách chống phương Tây của Bắc Triều Tiên”. Chuyến thăm Bình Nhưỡng của ông Tô Lâm diễn ra chỉ hai tháng sau chuyến công du Seoul còn cho thấy Hà Nội tiếp tục chính sách cân bằng quan hệ và đặt trọng tâm vào việc duy trì ổn định khu vực để phát triển kinh tế và hợp tác với cả hai miền Triều Tiên. Chuyến công du đầu tiên kể từ 18 năm qua mang lại những triển vọng như thế nào cho quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên ? Tiến sĩ Vũ Khang, học giả thỉnh giảng, tại Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Boston, Mỹ, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt. RFI : Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên trở thành đề tài được chú sau khi nhà lãnh đạo Kim Jong Un mời tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm đến dự 80 thành lập đảng Lao Động Triều Triên và lễ duyệt binh ở Bình Nhưỡng. Năm 2025 cũng đánh dấu 75 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, mối quan hệ này không phải lúc nào cũng suôn sẻ ! Vũ Xuân Khang : Quan hệ Việt Nam-Bắc Triều Tiên thực ra từ sau chiến tranh Lạnh không có nhiều phát triển so với quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc. Nói như vậy không có nghĩa là quan hệ Việt-Triều không quan trọng. Trong tình hình chính sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam, Bắc Triều Tiên là một trong những đối tác truyền thống của Hà Nội, khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao kể từ rất sớm, vào tháng 01/1950. Và Bắc Triều Tiên là nước thứ 3 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc và Liên Xô. Trong chiến tranh chống Mỹ, Bắc Triều Tiên đã cam kết sẽ bảo vệ miền Bắc khỏi các cuộc tấn công của Mỹ và chính họ đã gửi phi công tham chiến, cũng như một lượng lớn khí tài và viện trợ kinh tế cho miền Bắc. Mặc dù quan hệ hai bên đã bị sứt mẻ trong chiến tranh Đông Dương lần 3 khi Bắc Triều Tiên ủng hộ Trung Quốc và Khmer Đỏ chống lại Việt Nam, hai bên đã không có bất kỳ cuộc trao đổi cấp cao nào. Và đó gần như là giai đoạn mà hai bên không muốn nhắc tới. Đọc thêmViệt Nam cố giữ trung lập giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên Kể từ năm 1988-1989 đến nay, sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam Bốt, thì hai nước mới bắt đầu có những trao đổi cấp cao trở lại. Tuy nhiên, việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc vào năm 1992 đã khiến cho quan hệ Việt Nam-Bắc Triều Tiên tạm thời trở nên đóng băng. Kể từ đầu những năm 2000 trở lại đây, Việt Nam và Bắc Triều Tiên mới bắt đầu nối lại những đàm phán cấp cao do chính Bình Nhưỡng bày tỏ mong muốn là được thử nghiệm các mô hình mở cửa kinh tế như Việt Nam và Trung Quốc đã làm. Có thể thấy là quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên kể từ sau Chiến tranh Lạnh không có nhiều phát triển, nhất là quan hệ thương mại gần như nhỏ giọt, chỉ khoảng 20 triệu đô la/năm. Và về quan hệ quân sự, càng không có một chi tiết nào được công bố trên truyền thông. Những năm gần đây, Việt Nam và Bắc Triều Tiên mong muốn tiếp tục nối lại quan hệ ngoại giao sau khi đại dịch Covid-19 làm ảnh hưởng tới trao đổi cấp cao giữa hai nước mà do chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong Un đã cố gắng nối lại trong chuyến thăm Hà Nội năm 2019. RFI : Tổng bí thư Tô Lâm là nhà lãnh đạo đảng thứ 3 đến thăm Bắc Triều Tiên trong 75 năm qua, lần gần đây nhất là chuyến thăm của tổng bí thư Nông Đức Mạnh năm 2007. Vậy chuyến công du này có ý nghĩa như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Cần phải nói rõ là trong những năm gần đây, vì những lý do về kinh tế, về đại dịch nên Bắc Triều Tiên đã đóng cửa rất nhiều đại sứ quán và lãnh sự quán ở các nước đối tác truyền thống khác, như Uganda, Angola, Nepal, Senegal, Bangladesh, Hồng Kông, và Tây Ban Nha… nhưng họ vẫn duy trì hiện diện ở Việt Nam. Điều này cho thấy Bắc Triều Tiên vẫn nhìn nhận Việt Nam như là một đối tác rất quan trọng ở Đông Nam Á. Và trong những năm gần đây, cho dù hai nước không gặp nhau trực tiếp do đại dịch Covid-19, nhưng vẫn có những thư mừng hoặc những lời chúc mừng trong giai đoạn hai nước tổ chức Đại hội Đảng. Đặc biệt kể từ năm 2024, hai nước bắt đầu thực sự nối lại các cuộc gặp mặt cấp cao như chuyến thăm Việt Nam của ông Kim Song Nam, trưởng ban quốc tế trung ương của Đảng Lao động Triều Tiên, vào tháng 03/2024. Việt Nam cũng đã gửi thứ trưởng bộ Quốc Phòng và bộ Ngoại Giao đến thăm Bắc Triều Tiên vào tháng 9 và tháng 10/2024. Việc Bắc Triều Tiên hiện giờ mới mời được tổng bí thư Tô Lâm qua cũng là do đại dịch Covid-19 cũng như là hai bên vẫn chưa tìm được dịp đủ lớn, đủ trang trọng để mời tổng bí thư của Việt Nam qua. Dịp 80 năm thành lập đảng Lao Động Triều Tiên là một dịp rất hợp lý để Bắc Triều Tiên có thể nối lại các đàm phán cấp cao với Việt Nam ở cấp tổng bí thư. Đọc thêmViệt Nam giúp được gì Bắc Triều Tiên để gỡ thế cô lập ? RFI : Bắc Triều Tiên được cho là nhà cung cấp vũ khí, đạn dược cho Nga để duy trì cuộc chiến ở Ukraina. Bắc Triều Tiên cũng nổi tiếng về sản xuất tên lửa đạn đạo, hạt nhân, trong đó có một tên lửa đạn đạo tầm xa mới đã được giới thiệu trong lễ duyệt binh. Liệu mảng quân sự sẽ được đề cập trong quá trình thắt chặt quan hệ hữu nghị với Bình Nhưỡng không ? Hai bên dự kiến phát triển quá trình hợp tác này như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Trong chuyến thăm lần này của tổng bí thư Tô Lâm, Việt Nam và Bắc Triều Tiên đã ký kết Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. Cần nói rõ đây chỉ là ý định thư, nghĩa là hai nước bày tỏ quan điểm và các nội dung hợp tác trong tương lai khi các điều kiện cho phép. Và ở đây, lại cần nhấn mạnh vào yếu tố "khi các điều kiện cho phép" bởi vì Việt Nam hiểu rằng Bắc Triều Tiên vẫn đang chịu cấm vận rất lớn từ phương Tây. Đặc biệt là chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa, bất kỳ hoạt động hợp tác nào của Việt Nam với Bắc Triều Tiên trong lĩnh vực tên lửa tầm xa có thể vi phạm các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Việc này có thể sẽ ảnh hưởng tới quan hệ của Việt Nam với các nước phương Tây khi mà các nước phương Tây cũng như Hàn Quốc luôn luôn đặt vấn đề rằng Việt Nam phải cố gắng duy trì và bảo đảm các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc đối với Bắc Triều Tiên trong các cuộc gặp cấp cao. Nhưng phải nói rằng thực ra, Việt Nam lại rất hợp với vũ khí của Bắc Triều Tiên. Trong thời gian gần đây, Việt Nam mới thành lập Bộ Tư lệnh Pháo binh Tên lửa và Hà Nội mong muốn nâng cấp tầm bắn của các tên lửa Scud-B do Liên Xô sản xuất và Liên Xô đã trao cho Việt Nam rất nhiều tên lửa Scud vào giai đoạn 1980. Còn Việt Nam, kể từ sau Chiến tranh Lạnh, lại không có điều kiện để thực sự tìm được một nguồn cung dồi dào hoặc một lời khuyên để phát triển loại vũ khí này. Bắc Triều Tiên lại có một nền tảng quốc phòng rất mạnh, kể cả Liên Xô sụp đổ, họ cũng đã tự cải tiến tên lửa Scud, như chúng ta thấy là họ đã có một hệ thống tên lửa tầm xa rất phát triển, như mới đây nhất là trong lễ diễu binh có tên lửa Hỏa Tinh-20 có khả năng bắn đến Mỹ và sử dụng nhiên liệu rắn. Đọc thêmMô hình Việt Nam có thích hợp với Bắc Triều Tiên? Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ chương trình vũ khí hoặc là về công nghiệp quốc phòng nói chung của Bắc Triều Tiên. Nhưng như tôi đã đề cập ở trên, Việt Nam vẫn phải chú ý rất kỹ đến lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Đây mới chỉ là một ý định thư chưa chưa phải là một thỏa thuận hợp tác quốc phòng rõ ràng giữa hai nước. RFI : Tổng bí thư Tô Lâm trước đó đã công du Seoul. Việt Nam được cho là mua pháo K9 Thunder của Hàn Quốc. Và bây giờ là chuyến công du Bình Nhưỡng. Những hoạt động này có ý nghĩa như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Chuyến thăm đến Triều Tiên của tổng bí thư Tô Lâm gần như là ngay sau chuyến thăm Hàn Quốc hồi tháng 08, đây là một lời khẳng định rõ ràng về đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam trong tương lai cũng như hiện tại và Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả nước và mong làm cầu nối giữa các bên. Đặc biệt chuyến thăm Bắc Triều Tiên lần này còn có tiềm năng lớn với Việt Nam trong hoàn cảnh chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong Un và tổng thống Mỹ Donald Trump đều để ngỏ khả năng gặp mặt trong trường hợp hai bên đồng ý về một thỏa thuận hạt nhân. Đọc thêmVũ khí: Hàn Quốc giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào Nga Việt Nam với tư cách là đối tác tin cậy của cả hai nước và là chủ nhà của thượng đỉnh Mỹ-Triều năm 2019 sẽ mong muốn lại một lần nữa được thể hiện vai trò, cầu nối, trung gian hòa giải và đóng góp vào xây dựng hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Trong các tuyên bố với cả phía Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, Việt Nam đều nhấn mạnh rất rõ là mong muốn hai miền Triều Tiên tiếp tục đối thoại và hợp tác với nhau và Việt Nam cũng đề cập vai trò của mình trong việc ủng hộ bảo vệ an ninh khu vực. Đặc biệt, trong chuyến thăm Hàn Quốc của tổng bí thư Tô Lâm, Việt Nam cũng đề cập rất rõ là ủng hộ chính sách hòa giải liên Triều của tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung. Điều này thể hiện Việt Nam mong muốn được tiếp tục làm cầu nối giữa hai miền. Việc Bắc Triều Tiên vẫn gửi lời mời tổng bí thư Tô Lâm sau khi Việt Nam ký kết mua pháo K9 Thunder của Hàn Quốc cho thấy Bình Nhưỡng coi trọng vai trò trung gian hòa giải, cũng như đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của Việt Nam. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Vũ Khang, học giả thỉnh giảng, tại Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Boston, Hoa Kỳ.
    --------  
  • Việt Nam giảm số tội danh lãnh án tử hình, theo xu thế chung của thế giới
    Kể từ ngày 01/07/2025, Việt Nam không còn áp dụng án tử hình đối với 8 tội danh, theo xu thế chung hiện nay của thế giới là dần dần xóa bỏ án tử hình. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn duy trì án tử hình. Như mọi năm, ngày 10/10/2025 đã là Ngày Thế giới Chống Án Tử hình. Ngày này do tổ chức Liên minh thế giới chống án tử hình tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003 nhằm thống nhất phong trào bãi bỏ án tử hình toàn cầu và huy động xã hội dân sự, các nhà lãnh đạo chính trị, luật sư, dư luận xã hội… ủng hộ lời kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới.  Theo thống kê từ tổ chức Ân xá Quốc tế, 113 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các loại tội phạm, 23 quốc gia đang bãi bỏ án tử hình trong thực tế, 54 quốc gia đang duy trì án tử hình, trong đó có Việt Nam.   Tuy nằm trong số các nước vẫn còn duy trì án tử hình, Việt Nam nay cũng đã giảm bớt số tội danh lãnh án tử hình. Cụ thể, ngày 25/06/2025, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó bỏ án tử hình với 8 tội kể từ 01/07, đồng thời chuyển sang tù chung thân với người bị tuyên tử hình về các tội này trước ngày 01/07. Tám tội danh không còn bị kết án tử hình bao gồm: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421); Gián điệp (Điều 110); Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354). Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ Công An Việt Nam đã nêu lên 4 lý do. Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, “các tội danh này đã được đa số các nước trên thế giới không quy định hình phạt tử hình hoặc đang có xu hướng bỏ hình phạt tử hình.” Thứ hai, “nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, nhưng Việt Nam chưa cam kết, cho nên khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.” Thứ ba, đây cũng là “xu thế chung của thế giới”, hiện nay đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội không phải là “tội ác”. Thứ tư, bỏ án tử hình cũng là nhằm “đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa; đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan chức năng” Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, nhận định: “Chúng tôi cho rằng việc Việt Nam bỏ án tử hình là một xu thế mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Thứ nhất là mang tính nhân văn, thứ hai là tránh oan sai, vì thông thường một quốc gia nào cho dù có tối tân về máy móc và chuyên môn đến đâu thì cũng dễ dẫn tới những oan sai về tội tử hình. Nếu mà đã tử hình rồi thì hậu quả là không lường được và không thể khắc phục được.  Chúng ta thấy là càng về trước thì những hình phạt càng nghiêm khắc, gần giống như là “trả thù” người phạm tội, chẳng hạn như cho vào vạc dầu, tứ mã phanh thây, rồi tùng xẻo, hoặc là tử hình bằng cách làm cho người phạm tội đau đớn nhất. Nhưng càng văn minh thì người ta càng bỏ những hình phạt mang tính độc ác như vậy. Cho nên hướng tới là Việt Nam cũng hòa nhập với xu thế của thế giới. Việc Việt Nam bỏ bản tử hình là một điều hết sức mang tính văn minh và hội nhập quốc tế cao. Có một điều mà tôi thấy các quốc gia cũng hay áp dụng, đó là tuy bỏ hình phạt tử hình nhưng thay vào đó là một án chung thân không giảm án, có nghĩa là tránh oan sai cho người phạm tội đó. Tôi cho rằng quy định đó cũng hợp lý: Không tước đi mạng sống của người phạm tội, nhưng họ vẫn phải chịu một hình phạt, đó là phạt tù mà không bao giờ giảm án. Việt Nam cũng có một sự tiến bộ là bỏ án tử hình nhưng có một hình phạt là không giảm án. Tôi cho đấy là cũng phù hợp với xu thế chung của các quốc gia.” Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ trưởng Tư Pháp Nguyễn Hải Ninh đã cho biết một phần là trong thời gian qua Việt Nam trên thực tế không áp dụng án tử hình với các tội đó. Việc bỏ hình phạt tử hình với các tội này cũng là nhằm “phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy các quan hệ ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau.” Trong số các tội danh được bỏ án tử hình, có tội Vận chuyển ma túy. Nhiều người cho tới nay chỉ vì nhẹ dạ cả tin, hoặc vì túng quẫn làm liều, hoặc hám lời, đã nhận vận chuyển dùm cho các đường dây buôn ma túy nên phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Luật sư Hoàng Cao Sang giải thích:  “Trong nhóm tội phạm ma túy, trước đây có ba hành vi đưa đến mức cao nhất của khung hình phạt đó là tử hình: Tội sản xuất ma túy, tội mua bán ma túy và tội vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, đến lần sửa đổi luật vừa rồi thì Việt Nam bỏ tội vận chuyển ma túy, còn tội sản xuất và tội mua bán thì vẫn giữ ở khung hình phạt tử hình. Tôi cho rằng đối với 3 hành vi nghiêm trọng có mức khung hình phạt tử hình thì vận chuyển là hành vi nhẹ nhất, ít gây nguy hiểm nhất so với hai hành vi kia. Cho nên nhà nước bỏ tội tử hình đối với hành vi vận chuyển cũng là hợp lý.” Một điểm đáng chú ý khác đó là trong danh sách các tội không còn áp dụng án tử hình, có tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109). Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế, điều 109 là một trong những điều luật có nội dung mơ hồ và có thể diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật Hình sự  mà chính quyền Việt Nam thường sử dụng kết án tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo, với hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình. Các tổ chức nhân quyền đã từng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ hoặc sửa đổi điều luật này cho phù hợp với các nghĩa vụ Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Có lẽ chính là dưới áp lực của quốc tế mà Việt Nam đã bỏ án tử hình đối với tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Về điểm này, luật sư Hoàng Cao Sang ghi nhận:  “Xu thế của các quốc gia trên thế giới đều là không áp dụng hình phạt tử hình. Cho nên trong tội hoạt động lật đổ chính quyền, họ cũng yêu cầu không thực hiện việc tử hình đối với hành vi mà trước đây Bộ Luật hình sự Việt Nam cho là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cần phải tách ly người này ra khỏi cuộc sống xã hội. Tôi cho rằng bây giờ xã hội đã ổn định hơn và theo xu thế hội nhập thì cũng phải bỏ tội danh đấy và tôi nghĩ  thế giới cũng tránh việc một bộ luật lạm dụng điều đó để khống chế hoạt động của người dân nhằm phát triển quyền của con người. Trong thời gian qua, khi bộ luật có sửa đổi với việc bỏ 8 tội danh này thì tôi thấy là dư luận hay nhắc đến tội tham ô, nhận hối lộ, rồi tội vận chuyển trái phép chất ma túy, còn đối với các tội danh khác thì người dân ít quan tâm, hoặc là vì một lý do nhạy cảm nào đó người dân ít nhắc tới. Nhiều khi hành vi cũng không quá nghiêm trọng, nhưng rớt vào điều 109 này, tôi nghĩ nếu áp dụng khung hình phạt tử hình thì cũng hơi nghiêm khắc, cho nên tôi cho rằng bỏ cái hình phạt tử hình đối với tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân dân cũng là hợp lý.” Riêng với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, "nhằm bảo đảm thu hồi tài sản và khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo", luật sửa đổi có quy định người bị kết án tù chung thân có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt “khi chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng.”  Nhưng như vậy thì phải chăng các quan chức cứ việc tham ô, nhận hối lộ, nhất là nay không còn án tử hình nữa và nếu có bị phát giác, bị đưa ra xử thì chỉ cần hoàn trả lại tiền tham nhũng là được giảm án? Luật sư Hoàng Cao Sang nêu ý kiến:  “Tôi thì thì lại không hiểu như vậy, vì tất cả mọi điều luật đều có quy định rằng khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố xét xử. Cho nên đối với người phạm tội tham ô mà có đóng lại khoản tiền, xem đó là tình tiết giảm nhẹ để giảm án thì tôi cho rằng cũng phù hợp với các tội danh khác. Tuy nhiên, trong thời thời gian vừa rồi, có những trường hợp mà đóng tiền lại thì được giảm án quá "sâu" so với quy định thì dư luận cũng không đồng tình. Trước mắt, vì là người phạm tội bị kết án tử hình trước ngày 01/07, bà TRươngMỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Đại Thịnh Phát, trên nguyên tắc có thể được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình xuống chung thân, nhưng việc bà "khắc phục hậu quả" như thế nào chắc chắn sẽ được dư luật tiếp tục quan tâm. Quốc tế dĩ nhiên đã hoan nghênh việc Việt Nam xóa bỏ án tử hình đối với 8 tội danh, chẳng hạn vào ngày 08/08/2025, đồng chủ tịch Viện Nhân quyền thuộc Hiệp hội Luật sư Quốc tế (IBAHRI) Mark Stephens đã ra thông cáo nhấn mạnh: "Bước đi lịch sử này của Việt Nam đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hòa nhập hơn với xu hướng xóa bỏ án tử hình trên toàn cầu. Với nghĩa vụ không trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ án tử hình theo Điều 6(6) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), IBAHRI kêu gọi Việt Nam tiến tới xóa bỏ hoàn toàn án tử hình đối với mọi tội phạm." Việt Nam hiện vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phản quốc (Điều 108); tội nổi loạn (Điều 112); tội khủng bố nhằm chống Chính phủ (Điều 113); tội giết người (Điều 123); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội khủng bố (Điều 299); tội ác chống nhân loại (Điều 422); và tội ác chiến tranh (Điều 423). Theo IHBARI, dữ liệu về việc áp dụng án tử hình tại Việt Nam được cho là bí mật nhà nước, gây khó khăn cho việc xác định số liệu chính xác về việc áp dụng hình phạt này. Cũng trong thông cáo nói trên, đồng chủ tịch IBAHRI, bà Hina Jilani, kêu gọi Việt Nam “ tăng cường minh bạch trong việc áp dụng án tử hình, bao gồm việc cung cấp dữ liệu đầy đủ và chính xác về các bản án tử hình, các vụ hành quyết và các điều kiện giam giữ tại khu tử tù.” 
    --------  

About Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Podcast website
Social
v7.23.11 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 11/11/2025 - 3:21:18 PM