Powered by RND
PodcastsTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Latest episode

Available Episodes

5 of 50
  • Ma túy tổng hợp: Việt Nam đối phó với các đường dây buôn lậu từ Tam Giác Vàng
    Theo báo cáo do Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) công bố vào tháng 5 vừa qua, hoạt động sản xuất và buôn bán trái phép ma túy tổng hợp từ khu vực Tam giác Vàng ( khu vực nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Miến Điện ) đã tăng gấp bội. Là quốc gia có đường biên giới chung với Lào, một trong 3 quốc gia của khu Tam Giác Vàng, Việt Nam đang phải đối phó với ngày càng nhiều đường dây buôn lậu ma túy tổng hợp từ nước láng giềng.  Trả lời RFI Việt ngữ ngày 15/09/2025, nhà tội phạm học Lương Thanh Hải, giảng viên Trường Tư pháp hình sự và tội phạm học Griffith, Úc, và là chủ tịch Hội đồng nghiên cứu về tội phạm ma túy tại châu Á của Viện nghiên cứu AICS (Hoa Kỳ), trước hết nêu lên những tuyến đường mà ma túy tổng hợp xâm nhập vào Việt Nam : Lương Thanh Hải: Đến nay, việc thẩm lậu ma túy từ khu vực Tam Giác Vàng vào Việt Nam trải đều trên cả ba tuyến chính, đó là đường bộ, đường hàng không và đường biển. Việt Nam may mắn là không nằm trực tiếp trong vòng xoáy của Tam Giác Vàng. Thế nhưng Việt Nam lại là hàng xóm, chia sẻ đường biên trực tiếp với nước Lào, một trong ba nước của khu vực Tam Giác Vàng. Thành thử điều không tránh khỏi được là việc thẩm lậu ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp, vào Việt Nam trải đều cả ba tuyến, đặc biệt là tuyến đường bộ. Báo cáo mới đây nhất của Liên Hiệp Quốc vào tháng 5 vẫn sử dụng các tài liệu của 63 tỉnh thành. Cho nên tôi cũng theo cái thói quen đó tạm thời đề cập đến các tỉnh trước ngày 01/07 năm nay, khi Việt Nam giảm xuống còn 34 tỉnh thành. Tôi lấy ví dụ đường biên giới Việt Nam và Lào, đặc biệt là các cái cửa khẩu Cầu Treo của Hà Tĩnh, Cha Lo của Quảng Bình và Lao Bảo của Quảng Trị, những vùng rất nóng bỏng, hoặc là tuyến Tây Bắc thì có những khu vực đặc biệt nóng bỏng ở Lóng Luông, Mộc Châu, Sơn La, hay là ở Lạng Sơn, vân vân... Các trục đường biên giới giữa Việt Nam và Lào là một trong những điểm nóng mà Cục cảnh sát phòng chống ma túy của Bộ Công an Việt Nam đã đưa vào tầm ngắm không chỉ bây giờ, mà từ rất lâu. Ngoài ra, tuyến biên giới Việt Nam - Cam Bốt cũng vậy. Ở các đường biên giữa hai nước như Tây Ninh, An Giang, Long An, giới buôn ma túy cũng lợi dụng các hoạt động thương mại, du lịch và vận tải đường bộ. Có thể nói rằng trên đường bộ, ngoài các khu vực cửa khẩu mà tôi có nhấn mạnh, với một đường biên giới trải dài tổng cộng hơn 3000 km tiếp giáp giữa Việt Nam, Lào, Cam Bốt, giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì có thể nói rằng có rất nhiều đường mòn, lối mở. Lực lượng bộ đội biên phòng cũng như cảnh sát phòng chống ma túy của Việt Nam mặc dù đã chủ động và đã bố trí nhiều điểm chốt nhưng cũng không xuể được. Có thể nói nguồn nhân lực không thể kham hết được. RFI: Như vậy thì giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Cam Bốt, Trung Quốc, các lực lượng thực thi pháp luật có phối hợp với nhau để ngăn chận những đường dây đó? Lương Thanh Hải: Đó cũng là một trong những khía cạnh rất đáng ghi nhận. Nói gì thì nói, việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng có những tiến triển nhất định. Điều này đã được Ủy ban phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hiệp Quốc UNODC ghi nhận. Một điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó chính là mô hình hợp tác song phương đường biên, mà chúng tôi hay gọi là Border Liaison Office, tức là việc bố trí song song lực lượng thực thi pháp luật của cả hai nước, bao gồm cảnh sát, biên phòng, hải quan, vân vân. Hai bên sẽ chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, phối hợp các chuyên án để cùng nhau đánh sập các đường dây ma túy thẩm lậu giữa các nước với nhau.  Tuy nhiên, thành công trong các chuyên án phối hợp song phương hoặc đa phương cũng chỉ dừng lại góc độ chừng mực nhất định. Việc thực thi pháp luật vẫn đang còn những hạn chế, bởi vì thứ nhất, có sự khác biệt về mặt luật pháp. Đôi khi việc bắt và đánh sập một đường dây ma túy sau đó còn liên quan đến việc truy tố, xét xử và thi hành án, thậm chí là có dẫn độ hay không? Tất cả những câu hỏi đó, những rào cản đó cũng góp phần làm cản trở hiệu quả mang tính chất bền vững trong hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.  Ngoài cái đầu tiên đó là đường mòn, như tôi nói, rất phức tạp, có thể là điểm nóng nhất, thì đường biển cũng vậy. Đặc biệt trong giai đoạn Covid thì hầu hết đường biên giới của các nước đều đóng cả. Chính vì vậy, giai đoạn từ 2021 cho đến 2023 có thể nói là giai đoạn bùng nổ, không chỉ đối với Việt Nam hay ba nước khu vực Tam Giác Vàng, mà kể cả là Úc, Nhật hay Trung Quốc, kể cả Nam Mỹ, tất cả các hoạt động buôn bán vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp đều tận dụng đường biển rất nhiều. Cho nên khu vực eo biển nằm ở Vịnh Thái Lan và đi qua eo biển Malacca có thể nói cũng là một trong những đường biển mà Việt Nam cần phải tập trung để hạn chế tối đa. Ngoài đường bộ và  đường biển, đường hàng không và bưu kiện có thể nói cũng là một trong những hướng thẩm lậu ma túy nổi lên trong nhiều năm trở lại đây đối với Việt Nam, mà lực lượng thực thi pháp luật cũng đã ít nhiều có những thành công nhất định và đã phá được nhiều chuyên án liên quan vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp bằng đường hàng không và bưu kiện vào Việt Nam.  RFI: Với lượng bưu kiện nhập vào Việt Nam rất là lớn thì làm sao các cơ quan chức năng có thể kiểm tra để mà phát hiện được ma túy tổng hợp giấu trong những bưu kiện đó? Lương Thanh Hải: Đây là một trong những vấn đề rất là đau đầu và cũng là một trong những cái khó, bởi vì thứ nhất nó liên quan đến chính sách, pháp luật về kiểm soát và giám sát hàng hóa của từng nước. Việt Nam cũng vậy, không tránh khỏi những vướng mắc và khó khăn. Chẳng hạn về phương tiện trang thiết bị cho các lực lượng thực thi pháp luật, không phải cơ quan nào cũng đều được trang bị một cách tối tân nhất như ở các nước phương Tây. Đó cũng là một hạn chế làm giảm thiểu khả năng phát hiện đối với lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam đối với các đối tượng vận chuyển ma túy qua đường hàng không, hoặc là đường bưu kiện. Ngoài ra, những phương thức, thủ đoạn của các đối tượng vận chuyển ngày càng tinh vi hơn, không chỉ là giấu trong vali hay các vật dụng, vân vân. Có nhiều đối tượng còn nuốt vào trong bụng và thậm chí còn phẫu thuật để nhét vào các bộ phận của cơ thể, vân vân... Tất cả những điều đó đặt ra những thách thức và đòi hỏi các lực lượng thực thi pháp luật phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ, cùng với việc sử dụng phối hợp các trang thiết bị. Hiện nay, đối với Việt Nam thì Cảnh sát Liên bang Úc AFP cũng hỗ trợ rất nhiều cả về vật chất lẫn chương trình đào tạo, hỗ trợ về trang thiết bị. Ở góc độ nhà nghiên cứu và cũng là người thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa lực lượng thực thi pháp luật Úc và Việt Nam, tôi hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều hỗ trợ về trang thiết bị tối tân hơn. Ví dụ như các máy tia hồng ngoại có thể rà soát các loại chất ma túy qua đường bưu kiện và đường hàng không, hoặc là có thể có các khóa huấn luyện chuyên sâu đặc biệt đối với các detective dog, chó nghiệp vụ, để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình điều tra, phát hiện và suy xét các chuyên án ma túy liên quan đến đường hàng không. RFI: Cũng nói về hợp tác giữa Việt Nam với Úc, bây giờ có những đường dây vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam sang Úc, chắc là qua đường hàng không nhiều hơn, hay không? Như vậy hai nước phối hợp như thế nào để ngăn chặn những đường dây đó?  Đúng vậy. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, so với các nước khác, việc vận chuyển từ Việt Nam trực tiếp sang Úc thì số lượng không đáng kể. Theo báo cáo hàng năm của Ủy ban nghiên cứu về tội phạm và ma túy của Úc, hầu hết các đối tượng vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam qua Úc với số lượng vừa phải, nhỏ lẻ. Tức là nếu căn cứ theo định lượng tội danh của khung hình sự thì nó cũng ít nghiêm trọng, chứ không phải là hàng tạ hay hàng tấn, như khối lượng từ Tam Giác Vàng thẩm lậu vào Việt Nam. Các đối tượng vận chuyển như vậy thì rơi vào các nhóm thứ yếu, có thể là những du học sinh, những người lớn tuổi, những người nhẹ dạ cả tin cầm hành lý hộ, vân vân. Tuy nhiên, ở góc độ về thực thi pháp luật, hợp tác giữa Cảnh sát Liên bang Úc AFP và cảnh sát Việt Nam khá chặt chẽ, bởi vì AFP là một trong những lực lượng thực thi pháp luật triển khai khá sớm con người cụ thể ở đại sứ quán ở Hà Nội cũng như lãnh sự quán ở thành phố Hồ Chí Minh . Mô hình thành lập trung tâm phòng chống tội phạm xuyên quốc gia Việt - Úc có thể nói là một trong những mô hình đầu tiên mà một lực lượng cảnh sát ngoài Việt Nam, cụ thể là Úc, phối hợp cùng Tổng cục Cảnh sát trước đây, bây giờ là văn phòng cơ quan điều tra phụ trách. Cả hai bên đã phối hợp và xây dựng và đặt tại trụ sở thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm phòng chống tội phạm xâm quốc gia này hoạt động khá hiệu quả, là nơi trung chuyển, cung cấp, trao đổi thông tin, cả thông tin tình báo lẫn thông tin về các loại tội phạm, đặc biệt là về ma túy, để giúp  lực lượng thực thi pháp luật cả hai nước có cơ sở để triển khai các hoạt động phòng chống hiệu quả.
    --------  
  • 2026 : Bối cảnh quốc tế không thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng 10% của Việt Nam
    Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2026 đạt 10% trở lên “để tạo đà, tạo lực, tạo thế cho tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo, GDP đầu người đạt 5.500 đô la” (1). Đây là hai trong số 15 chỉ tiêu về kinh tế-xã hội trong kế hoạch dự kiến năm 2026 để đạt hai mục tiêu 100 năm đã đề ra : Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Ngày 19/10/2025, thủ tướng Phạm Minh Chính thừa nhận mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số những năm tới là không dễ đạt được, nhưng không thể không làm. Chính phủ duy trì mức tăng trưởng 8% cho năm 2025 (thấp hơn so với dự báo hồi đầu năm) nhờ vào việc “nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh được khả năng phục hồi bất chấp những cú sốc bên ngoài”. Tuy nhiên, các định chế tài chính, ngân hàng quốc tế đưa ra mức thẩm định thấp hơn : từ 6,5% đến 6,7%. Chính phủ xác định phải thay đổi mô hình kinh tế, hiện vẫn dựa vào gia công, nhập khẩu và mô hình tăng trưởng, chủ yếu đến từ vốn, lao động (2). Tuy nhiên, những thay đổi này liệu có thể mang lại kết quả ngay năm 2026 để góp phần cho mục tiêu tăng trưởng 10% ? Tăng trưởng của Việt Nam vẫn phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, đặc biệt là thị trường Mỹ, mức thuế hải quan 20% áp dụng đối với hàng hóa của Việt Nam, cũng như những xáo trộn trên thế giới do thuế đối ứng của Mỹ, sẽ tiếp tục tác động như thế nào đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 2026 ? Ông Hubert Testard, chuyên gia về châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, tổng biên tập báo mạng Asialyst chuyên về châu Á, chia sẻ một số nhận định với RFI Tiếng Việt. RFI : Chính phủ Việt Nam đưa ra dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 là 8%. Vào tháng 9, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra dự báo là khoảng 6,7%, còn Ngân hàng Thế giới là 6,6%, Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 6,5%. Có thể thấy sự khác biệt rất rõ giữa những mức dự báo này. Liệu chúng ta có thể lạc quan về dự báo được chính phủ Việt Nam đưa ra không ? Hubert Testard : Đúng là có sự khác biệt giữa dự báo chính thức của chính phủ Việt Nam, khá là lạc quan cho năm 2025, và dự báo của các tổ chức quốc tế. Sự khác biệt này có thể là do những gì xuất hiện trong báo cáo của các tổ chức quốc tế thường dựa trên dữ liệu chậm hơn ngày công bố từ một đến hai tháng. Ví dụ, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế - IMF vừa công bố báo cáo thường niên vào ngày 15/10, nhưng dữ liệu đối với Việt Nam có lẽ là những dữ liệu dừng lại vào cuối tháng 8. Vấn đề ở chỗ là Việt Nam đã ghi nhận kết quả quý III rất tốt, với mức tăng trưởng hơn 8% một chút. Và đó là lý do khiến chính phủ Việt Nam lạc quan về tăng trưởng cả năm. Nhưng chúng ta biết rằng quý IV sẽ ít khả quan hơn vì áp lực từ thuế quan của Mỹ. Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong quý I đã rất tốt vì các nhà xuất khẩu lường trước được những vấn đề này và do đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng gần 30% trong nửa đầu năm. Nhưng rõ ràng, giờ đây mọi chuyện không thể như cũ được nữa và sẽ có tác động trong quý IV. Đọc thêmMỹ-Việt công bố tuyên bố chung về thỏa thuận khung thương mại, Hà Nội vẫn chịu mức thuế quan 20% Nhưng vì kết quả quý III rất tốt, tôi nghĩ rằng nhìn chung, kết quả cả năm sẽ không chênh lệch quá nhiều so với dự báo của chính phủ. Tôi nghĩ con số này sẽ tốt hơn so với những gì Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế hoặc Ngân Hàng Thế Giới dự báo trong số liệu chính thức hiện nay của họ. Theo tôi, kết quả sẽ đạt trên 7% trong năm nay. RFI : Ngày 20/10, thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh “kinh tế Việt Nam khẳng định đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, tăng trưởng cao hàng đầu thế giới”. Liệu điều này có thể giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng 10% cho năm 2026 ? Hubert Testard : Mức 10% vào năm 2026, trái lại, lại quá lạc quan, rất tham vọng. Và theo tôi, có lẽ không thể đạt được đối với Việt Nam, bởi vì bối cảnh quốc tế trong năm 2026 sẽ bớt thuận lợi hơn nhiều. Trước tiên là mức thuế quan trung bình 20% của Mỹ mà ai cũng biết, nhưng cũng phải kể đến nhiều mức thuế đặc biệt khác đối với ô tô, thép, nhôm. Gần đây, còn có một vấn đề khác đối với các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam, với thông báo ngừng xuất khẩu một số mặt hàng vào năm 2026. Tất cả những điểm này sẽ có tác động nhất định. Ngoài ra, bối cảnh chung ở một số nước khác cũng không đặc biệt hơn. Nghĩa là, nhu cầu của Trung Quốc không mạnh lắm, châu Âu đang cố gắng hạn chế dòng hàng nhập khẩu từ châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc. Vì vậy, bối cảnh quốc tế sẽ kém thuận lợi hơn. Tất cả các tổ chức quốc tế đều dự đoán năm 2026 sẽ có mức tăng trưởng kém hơn một chút so với năm 2025. Vì vậy, việc đạt được 10% trong bối cảnh này, đối với tôi, là không được khả thi lắm. RFI : Ông vừa nhắc đến mức thuế 20% của Mỹ, khả năng thủy sản Việt Nam không được xuất khẩu sang Mỹ năm 2026… những biện pháp này có tác động đến GDP của Việt Nam không trong khi năm 2024, xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 30% GDP của Việt Nam ? Hubert Testard : Có, chắc chắn là có. Đã có những đánh giá về tác động này, nhưng chúng ta hãy chờ xem tác động thực sự như thế nào. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế - IMF, tác động của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Mỹ gây thiệt hại ít nhất là khoảng 0,5 đến 0,7% GDP cho Việt Nam. Đó là một cú sốc đáng kể và có thể bù đắp được nếu Việt Nam thúc đẩy nhiều hơn nhu cầu nội địa và đa dạng hóa trao đổi thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đây vẫn là một cú sốc tiềm tàng khá mạnh. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cũng ước tính xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể giảm 20%. Tôi thấy con số này hơi quá. Nhưng rõ ràng là vẫn sẽ có một cú sốc rất lớn, cho nên Việt Nam sẽ phải bù đắp cú sốc này bằng nhiều biện pháp khác nhau trên thị trường nội địa cũng như đa dạng hóa trao đổi thương mại. Đọc thêmViệt Nam : “Bạn” hay “thù” trong chính sách đánh thuế của Trump ? RFI : Mô hình tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đầu tư công và xuất khẩu, chủ yếu từ các nhà đầu tư nước ngoài. Liệu mô hình này có còn phù hợp trong tương lai ? Hubert Testard : Rõ ràng là phải thay đổi mô hình này. Đó là điều mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCDE) khuyến nghị trong báo cáo tháng 06/2025 về Việt Nam. Tổ chức này đưa ra một loạt đề xuất để mô hình tăng trưởng của Việt Nam tiến triển. Tôi nghĩ là trong bối cảnh nhu cầu quốc tế sẽ phức tạp, Việt Nam cần phát triển nhu cầu nội địa nhiều hơn hiện tại. Dù sao vẫn có một số điểm tích cực, ví dụ như tiền lương ở Việt Nam đang tăng nhanh hơn so với các nước ASEAN khác. Và đó là một cách tốt để hỗ trợ nhu cầu nội địa. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề khác, ví dụ, chi tiêu về xã hội rõ ràng là không đủ, đặc biệt là cho người cao tuổi. Cho nên lương hưu, đặc biệt là lương hưu tối thiểu, là một vấn đề. Ngoài ra, chi tiêu cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, cũng không đủ. Chúng ta biết rằng kinh phí mà thanh niên Việt Nam phải trả để học đại học là quá cao, và khiến một bộ phận người trẻ không muốn hoặc không thể theo học. Đó là điều cần phải thay đổi bởi vì Việt Nam ngày càng cần một lực lượng lao động được đào tạo bài bản và có trình độ để đạt được tăng trưởng hiệu quả hơn và hướng tới các công nghệ khác. Đọc thêmĐể duy trì tăng trưởng cao, Việt Nam buộc phải thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân Ngoài ra, còn có một vấn đề tiềm ẩn khác đang bắt đầu nổi lên, đó là tình trạng lão hóa dân số. Hiện nay, những người trên 65 tuổi chiếm 15% dân số Việt Nam, còn khá thấp so với các quốc gia khác. Tuy nhiên, điều này sẽ thay đổi rất nhanh chóng và sẽ đạt hơn 30% vào năm 2050, đồng nghĩa với việc chi tiêu xã hội cho y tế và hưu trí sẽ tăng đáng kể. Như vậy, chính phủ cần tìm cách tài trợ cho chi tiêu xã hội và làm thay đổi phát triển mô hình xã hội Việt Nam. RFI : Gần đây thiệt hại do thiên tai gây ra ở Việt Nam cũng được đề cập. Theo đánh giá sơ bộ, thiệt hại này chiếm khoảng 2% GDP. Liệu đây có phải là một tác động cần được xem xét cho tăng trưởng ở Việt Nam ? Hubert Testard : Như chúng ta đã biết, biến đổi khí hậu vẫn đang tiếp tục gây ra những tác động, và Việt Nam nằm trong số những nước bị tác động nặng. Chị nhắc đến khoảng 2%, nhưng có khả năng con số này sẽ tăng lên trong những năm tới. Điều đó có nghĩa là, chúng ta không nên kỳ vọng vào việc các cú sốc khí hậu sẽ giảm đi, mà ngược lại sẽ gia tăng. Vì vậy, ở điểm này, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn để có thể ứng phó với những cú sốc trong tương lai. Ngoài ra còn có một khía cạnh khác, đó là quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam nhằm giảm phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Đây cũng là một dự án đầu tư lớn được tiến hành tại Việt Nam. Có thể thấy là có nhiều dự án đã được khởi động, mọi việc tiến triển, nhưng vẫn còn rất xa mục tiêu được đặt ra cho năm 2050. Cho nên chính phủ Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn chuyên gia Hubert Testard, tổng biên tập báo mạng Asialyst chuyên về châu Á.  (1) Quốc hội thảo luận mục tiêu tăng trưởng 2026 từ 10%, GDP đầu người đạt 5.500 USD 2/ Chính phủ đặt mục tiêu GDP năm 2026 tăng 10%
    --------  
  • Giải quyết tình trạng ngập lụt đô thị Việt Nam: Quy hoạch đồng bộ và thêm không gian xanh
    Một phần do tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng ngập lụt đang trở nên thường xuyên hơn và trầm trọng hơn ở các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu như bất cứ cơn mưa lớn nào cũng có thể biến đường phố thành sông hồ, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến đời sống người dân.  Đặc biệt là hai đợt mưa lớn cuối tháng 9 và đầu tháng 10 vừa qua đã khiến Hà Nội bị ngập nước ở rất nhiều điểm, có nơi bị ngập đến vài ngày, khiến giao thông tê liệt. Đâu là những nguyên nhân của tình trạng này? Những giải pháp nào thật sự hiệu quả để giải quyết tận gốc vấn đề? Trong chương trình hôm nay mời quý vị nghe ý kiến của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Việt Nam. RFI Việt ngữ hôm nay rất vui mừng được tiếp chuyện với kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn để nói về tình trạng ngập lụt tại các đô thị lớn ở Việt Nam hiện nay. Trước hết theo quan sát của ông, tình trạng ngập lụt ở các đô thị hiện nay đang trở nên trầm trọng như thế nào? Tình trạng ngập lụt ở Việt Nam trong hai năm gần đây ngày càng trầm trọng hơn, một phần là do biến đổi khí hậu, bởi vì có những cơn mưa rất lớn, bình thường là cả chục năm mới có một lần, còn bây giờ thì tần suất thường xuyên hơn. Lượng mưa và độ tăng thủy triều trở nên ngày càng thất thường hơn. Đó là ảnh hưởng chung trên cả thế giới.  Thứ hai là những khu, đặc biệt là những khu đô thị mới, những khu đang xây nhà cao tầng, khi có mưa lớn thì thường là dễ bị ngập. Vừa rồi Hà Nội cũng có một trận ngập cả thành phố rất  lớn, ngay cả sân bay cũng bị ngập. Nói chung là những đô thị lớn tại Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng đều bị ngập và đặc biệt là những khu mới. Mặt khác, do Việt Nam đang có độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, các đô thị là những nơi đang phát triển rất năng động. Ở những đô thị lớn thì có thể nói gần như con đường nào cũng có một vài công trình gì đó đang mọc lên. Rõ ràng là hệ thống thoát nước không theo kịp với cái đà phát triển đô thị. Tức là ở đây, ngoài yếu tố biến đổi khí hậu, theo ông, vấn đề chính phải chăng là do chúng ta quy hoạch không đúng quy cách?  Ở đây cũng không hoàn toàn là do quy hoạch đô thị, mà là do nhiều yếu tố cộng lại. Thứ nhất, việc quy hoạch đô thị thường là có những tiêu chuẩn quy phạm thì mình chưa đổi mới kịp. Những tiêu chuẩn đó chỉ đáp ứng với điều kiện bình thường và khi có những tình huống như vậy, thì rõ ràng là những tiêu chuẩn, tiêu chí để phê duyệt quy hoạch phải được nâng tầm lên, để dự phòng những trường hợp có nguy cơ ngập cực đoan, mình có thể ứng phó với nó.  Đó là một phần thôi, nhưng phần khác cũng khá quan trọng: Việt Nam sau này phát triển theo nền kinh tế thị trường rồi, thành ra những dự án phát triển đô thị không phải luôn luôn dùng vốn của nhà nước, mà đa số những dự án đó là dùng nguồn vốn của tư nhân. Có những trường hợp mà nhà đầu tư thiếu trách nhiệm xã hội. Khi phát triển dự án, họ nhắm đến lợi ích cá nhân nhiều, không coi trọng lợi ích của cộng đồng. Ví dụ như trong một bản quy hoạch khu đô thị mới được phê duyệt, người ta vẽ đầy đủ hết: Công viên, có đường xá, có cống rãnh, có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Nhưng khi đi vào thực hiện thì rất nhiều dự án người ta có lẽ muốn thu lợi nhanh, nên nhà cửa xây xong rồi, bán rồi, người dân dọn vô rồi, mà đường xá kết nối chưa xong, cống rãnh chưa xong, hệ thống hạ tầng xã hội, trường học còn thiếu thốn, dịch vụ thương mại còn thiếu rất nhiều thứ. Thứ hai, với những khu đô thị hiện hữu mà đã ổn định rồi, nếu chúng ta giữ nguyên như vậy thì không sao, ví dụ như khu trung tâm quận 1, quận 3 của Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng do trong quá trình phát triển, người ta lại xây dựng rất nhiều nhà cao tầng vào đó. Mật độ xây dựng, mật độ bê tông hóa rõ ràng tăng lên có thể gấp 5, gấp 10 lần. Tuy nhiên, việc nâng cấp cho hệ thống hạ tầng để đảm đương cho mật độ đó lại không được thực hiện đồng bộ. Như vậy là bản thân những khu chỉnh trang cũng gây ngập. Thành phố Hồ Chí Minh sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, trở thành một siêu đô thị rất là lớn, với quy mô diện tích tăng gấp ba, dân số cũng như quy mô kinh tế tăng gấp rưỡi. Việc quản lý một siêu đô thị 14 triệu dân cũng không phải dễ dàng. Chúng ta đang bị động với một quy mô đô thị ngày càng lớn, đô thị hóa ngày càng tăng. Phải có sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, phối hợp giữa công và tư, phối hợp nhà đầu tư và ngay cả với cư dân đô thị. Mọi người đều cần tham gia trong việc chống ngập. Đối với người dân, cũng có những chuyện nhỏ nhưng mà không nhỏ. Ví dụ như một số người dân có thói quen đổ rác vào những chỗ thoát nước, làm nghẹt cống thoát nước, gây ngập và chính bản thân họ cũng là người bị thiệt hại.  Thưa ông, ngoài vấn đề ông nêu lên, tức là phải có ý thức của cộng đồng nói chung, của các nhà đầu tư, của người dân, hiện nay cứ mỗi lần mưa lớn một chút là đường phố ngập lụt kéo dài nhiều giờ. Như vậy trước mắt chúng ta có những giải pháp gì về mặt xây dựng, ví dụ như có những cống thoát nước nhiều hơn, lớn hơn hoặc những hồ điều tiết để khi nào mưa lớn thì nước rút nhanh hơn? Đầu tiên, tỷ lệ bê tông hóa của các đô thị rất là cao, đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay cao đến mức là tỷ lệ không gian xanh chỉ đạt khoảng nửa mét vuông trên đầu người, trong khi tỷ lệ mà UNESCO đề xuất tối thiểu phải là 10 mét vuông trên đầu người. Những đô thị lớn như Berlin chẳng hạn thì lên tới 40 mét vuông cây xanh trên đầu người và những đô thị khác thì trung bình ít nhất cũng phải 20, 25, 30 mét vuông. Việc đầu tiên đối với các thành phố bị ngập là phải giảm bê tông hóa và tăng không gian xanh. Nói nôm na là mình phải quy hoạch lại để tăng không gian cho nước. Không gian cho nước bao gồm sông, hồ, kênh, rạch phải liên thông với nhau, để thoát nước nhanh. Thứ hai là phải tăng không gian xanh lên, như chúng tôi nói là Thành phố Hồ Chí Minh phải tăng lên ít nhất 20 lần để mà đạt tối thiểu là 10 mét vuông cây xanh trên đầu người. Bí thư mới Trần Lưu Quang cách đây vài ngày cũng vừa có một quyết định rõ ràng là một định hướng mới cho thành phố, đó là về khu đất ven cảng Sài Gòn ngày xưa. Trước đây nhà đầu tư muốn xây một cái bức tường cao ốc ở đây, bởi vì nó có vị trí đẹp, nhìn thẳng ra trung tâm, nhìn ra sông Sài Gòn. Vừa rồi thì bí thư Trần Hữu Quang đã quyết định không cấp phép cho dự án xây cao tầng ở đây nữa, mà biến nó thành một công viên kết hợp với công trình văn hóa cộng cộng. Đây là một quyết định rất là khó khăn, bởi vì người ta hay gọi những khu đất như vậy là đất "vàng" và nhà đầu tư khi đầu tư những dự án lớn như vậy thì họ sẽ đóng góp cho ngân sách cũng không nhỏ. Tuy nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh quá thiếu không gian xanh, nếu như những khu đất này mà không làm thành không gian xanh thì còn ở đâu để làm nữa? Đây rõ ràng là một định hướng rất là bền vững, đáp ứng nhu cầu tăng không gian xanh cho thành phố và tăng không gian văn hóa công cộng cho thành phố.  Làm nhiều công viên cũng rất quan trọng ở chỗ là khi mưa xuống mà mình có nhiều diện tích không gian xanh, thì nước từ khu vực cao xuống khu vực thấp sẽ chảy chậm lại, bởi vì không gian xanh làm chậm tốc độ chảy của nước và làm giảm áp lực nước dồn xuống thấp quá nhanh. Mặt khác nó sẽ thu hút được lượng nước bổ sung cho lượng nước ngầm ở dưới, vừa giúp để cho nước hấp thụ xuống dưới và dần dần chảy ra sông. Nó cũng sẽ tránh được tình trạng sụt lún đất, bởi vì khi nước ngầm ở dưới mà bị cạn, thì nó sẽ tạo những túi không khí ở dưới và gây tình trạng sụt lún đất. Thứ hai, việc tăng không gian cho nước là nạo vét sông, hồ, kênh, rạch. Thành phố cũng đang có ý thức là trả lại những con kênh trước đây. Trước đây, vì muốn thúc đẩy phát triển đô thị, người ta lấp kênh và làm cống hộp ở dưới, nhưng sau này, với nguy cơ ngập thì một số nơi đã đào lại con kênh. Không gian hở của kênh hiệu quả hơn rất nhiều so với không gian cống hộp ở dưới. Đây cũng là điều nên làm: xây dựng những hồ điều tiết, có thể là hồ nổi, kết hợp với cảnh quan và cũng có thể là ngầm, để khi mưa lớn thì mình hút nước vào đó và sau đó mưa tạnh thì dần dần nó thoát ra. Điều đó cũng giảm cho nguy cơ ngập. Bên cạnh đó, về mặt quy hoạch, tôi nghĩ là nên có một chính sách quản lý đô thị nhất quán. Trước đây đôi khi mình buông lỏng, để cho có tình trạng  người ta xây nhà, xây những cao ốc để bán, nhưng thiếu đường xá, thiếu cống rãnh, thiếu hạ tầng. Bây giờ nên chuyển thành một chiến lược mới là hạ tầng phải đi trước, tức là những nhà đầu tư làm những khu đô thị, dù là chỉnh trang hay xây mới, phải bàn giao hạ tầng đảm bảo thì mới được bắt đầu bán những dự án đó. Mình không để cho trách nhiệm xã hội nhà đầu tư một cách tự giác nữa, mà mình phải đưa nó vào luật, bắt buộc là hạ tầng phải đi trước.  Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu thành một đô thị khổng lồ. Phải chăng đây là cơ hội để chính quyền địa phương đề ra những giải pháp rộng lớn hơn để giảm bớt tình trạng ngập lụt? Nhìn trên bản đồ, chúng ta cũng thấy là khu nội thành Thành phố Hồ Chí Minh rất là chen chúc, nhìn trên Google Maps nó trắng xóa hết, bê tông hết, không thấy bao nhiêu không gian xanh. Khi đô thị lớn gấp ba thành siêu đô thị thì đây là cơ hội để khuyến khích giãn dân ra, khuyến khích phát triển về phía Bình Dương, là nơi có thể tạo công ăn việc làm về công nghiệp, công nghệ cao, hay là giãn dân về phía biển là chuỗi đô thị Cần Giờ, Vũng Tàu, Long Hải, Hồ Tràm, những nơi cũng có công ăn việc làm phục vụ du lịch và hiện giờ tỷ lệ bê tông hóa không cao, quỹ đất còn rất nhiều. Khi chúng ta giãn dân ra như vậy, đây cũng là cơ hội để chúng ta nâng tầm chất lượng cho khu nội Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi kỳ vọng là trong 5,10 năm tới, chúng ta sẽ đạt được tiêu chí mà chúng ta đang mong muốn hàng mấy chục năm nay là 10 mét vuông cây xanh trên đầu người. Nó không chỉ giảm ngập mà nó còn giúp nâng cao giá trị của môi trường, tạo cho người dân nhiều không gian để thư giãn, sinh hoạt cộng đồng và cải thiện chất lượng không khí, không bị tiếng ồn. Không gian xanh rất là quan trọng trong việc tổ chức đô thị. Tôi kỳ vọng là Thành phố Hồ Chí Minh sắp tới sẽ phát triển theo hướng hướng đô thị xanh và bền vững.
    --------  
  • Việt Nam : “Quốc tế hóa” vai trò của tổng bí thư đảng Cộng Sản
    Khoảng 20 chuyến công du đến 20 nước trong vòng hơn một năm giữ chức tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm có lẽ là nhà lãnh đạo đảng công du nước ngoài nhiều nhất. Trong khuôn khổ những chuyến công du này, Việt Nam nâng cấp Đối tác Chiến lược Toàn diện với 6 nước, và Đối tác Chiến lược với 5 nước khác. Dưới thời ông Tô Lâm, Việt Nam đang “quốc tế hóa” vai trò của tổng bí thư. Khi đưa tin về chuyến công du Anh Quốc và Bắc Ireland của ông Tô Lâm, từ 28-30/10/2025, hãng tin Anh Reuters nhận định nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Việt Nam, ông Tô Lâm, đã đóng vai trò trung tâm trong việc định hình chính sách đối ngoại kể từ khi trở thành tổng bí thư đảng Cộng Sản vào năm ngoái (2024), một nỗ lực trước đây do chủ tịch nước và thủ tướng dẫn đầu. Cho thế giới thấy nhà lãnh đạo thực sự ở Việt Nam Ngay sau khi chính thức được bầu làm tổng bí thư, tại buổi họp báo ngày 03/08/2024, ông Tô Lâm có bài phát biểu “khẳng định kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng mà cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các thế hệ lãnh đạo đi trước đã gây dựng”. Điểm này đang được ông Tô Lâm phát triển mạnh mẽ hơn, theo nhận định của giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales : “Tổng bí thư Tô Lâm đang tận dụng sự lãnh đạo của mình để phát huy di sản của người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng, người đã chính thức hóa vai trò của tổng bí thư trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Tổng bí thư Trọng đã được lãnh đạo chính phủ Anh và Nhật Bản, hai nền dân chủ tự do, đón tiếp, và được tổng thống Barack Obama tiếp đón tại Nhà Trắng. Ông Trọng cũng đã tiếp đón tổng thống Joe Biden tại Hà Nội”. Theo thông lệ, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của tân tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam là đến Lào, sau đó là Cam Bốt và Trung Quốc - nước láng giềng rộng lớn mà ngay vào thời kỳ đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam xác định rõ chính sách đối với Trung Quốc “là phải thân thiện”. Tiến sĩ Vũ Khang, học giả thỉnh giảng tại Đại học Boston, Mỹ, nhận định với RFI Tiếng Việt : “Việc Việt Nam quốc tế hóa vai trò của tổng bí thư thực ra không có gì là bất ngờ. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là bảo vệ an ninh của thể chế, và một trong những cách đó là nâng cao vai trò của tổng bí thư trên trường quốc tế. Với các nước chung chí hướng như là Bắc Triều Tiên, Trung Quốc hay Lào thì đây cũng không phải là một sự thay đổi lớn do vai trò của quan hệ kênh Đảng từ lâu đã được khẳng định”. Đọc thêmViệt Nam : Tổng bí thư Tô Lâm thăm Bắc Triều Tiên, dự lễ 80 năm thành lập đảng Lao Động Tiếp theo là hàng loạt vòng công du cho đến cuối năm 2024. Ví dụ, tháng 09/2024, tổng bí thư Tô Lâm đến dự Hội nghị thượng đỉnh Tương Lai, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và làm việc ở Hoa Kỳ. Sau đó, ông công du nước Cuba anh em. Đến đầu tháng 10, ông công du Mông Cổ, tiếp theo là Ireland và Pháp. Đến tháng 11 là Malaysia. Trong những chuyến công du này, Việt Nam nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn Diện với ba nước Mông Cổ, Pháp, Malaysia. Các nước ASEAN mở đầu cho vòng công du năm 2025 của tổng bí thư Tô Lâm. Tháng 03, ông thăm Singapore, Indonesia, nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất với hai nước. Với những hoạt động này, tổng bí thư “đang đảm nhiệm vai trò nhà ngoại giao cấp cao, thường là nhiệm vụ của chủ tịch nước hoặc thủ tướng”, theo ý kiến của giáo sư Zachary Abuza, Đại học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ ở Washington : “Bằng cách này, ông Lâm đã khẳng định rõ ràng rằng ông coi chức vụ quyền lực nhất của đảng Cộng sản Việt Nam là chức vụ có chức năng điều hành trong đảng-nhà nước, điều mà những người tiền nhiệm của ông, những người chỉ tập trung vào chính sách và hệ tư tưởng, chưa từng đảm nhiệm”. Trong tháng 05, ông thăm bốn nước thuộc Liên Xô cũ (Kazakhstan, Azerbaijan, Nga, Belarus), nhân chuyến công du theo lời mời dự Ngày Chiến thắng với lễ diễu binh trên Quảng trường Đỏ ở Matxcơva. Ba tháng sau ông thăm Hàn Quốc. Trong tháng 10/2025, ông Tô Lâm công du Bắc Triều Tiên dự lễ kỷ niệm 80 thành lập đảng Lao Động Triều Tiên, sau đó là vòng công du hai nước châu Âu Phần Lan và Bulgari, cuối cùng là Anh Quốc và Bắc Ireland, nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với Helsinki và đối tác chiến lược toàn diện với Luân Đôn. Có thể thấy ông Tô Lâm quảng bá mạnh hơn, cho quốc tế thấy rõ hơn hình ảnh và vai trò của tổng bí thư - nhà lãnh đạo trên thực tế của Việt Nam, theo nhận định của Giáo sư Carl Thayer ngày 28/09 : “Tổng bí thư Tô Lâm đã liên tiếp công du nước ngoài kể từ khi nắm quyền lãnh đạo đảng và đóng vai trò quan trọng trong việc ký kết bảy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mới (Úc, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore và Thái Lan). Ông Tô Lâm đang chứng minh rằng vị thế tổng bí thư không chỉ quan trọng đối với các vấn đề đối nội mà còn cả đối ngoại”. Đọc thêmLãnh đạo Việt Nam Tô Lâm đi Mỹ dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc Một yếu tố mới, được tiến sĩ Lê Hồng Hiệp nhận định trên trang Fulcrum ngày 02/07/2025, là vai trò của “Đệ nhất phu nhân” định nghĩa lại nền ngoại giao và chính trị Việt Nam. Bà Ngô Phương Ly, “đệ nhất phu nhân trên thực tế, đã mở đường cho việc tăng cường các nỗ lực ngoại giao của Việt Nam và làm dịu đi hình ảnh của chồng bà” : “Bà Phương Ly, phu nhân của tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm, đang nhanh chóng nổi lên như một nhân vật mang lại sự thay đổi trong ngoại giao quốc tế của Việt Nam. Bà tháp tùng ông Tô Lâm trong hầu hết các chuyến thăm nước ngoài và tiếp đón các nhà lãnh đạo nước ngoài tại Việt Nam. Thông qua việc thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa và xã hội với các đối tác nước ngoài, bà đã nâng cao vị thế ngoại giao của Việt Nam và nâng cao hình ảnh của ông Tô Lâm trước công chúng, qua đó góp phần nâng cao vị thế chính trị của ông. Ví dụ, trong chuyến thăm Singapore của ông Tô Lâm vào tháng 03/2025, bà Phương Ly đã tham gia các cuộc thảo luận về các vấn đề văn hóa với bà Loo Tze Lui, phu nhân thủ tướng Singapore Lawrence Wong, và chứng kiến ​​lễ ký kết Biên bản ghi nhớ giữa Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và Nhạc viện Yong Siew Toh của Singapore. Gần đây hơn, trong chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Pháp Emmanuel Macron tháng 05/2025, bà Phương Ly đã tháp tùng bà Brigitte Macron tham quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Văn Miếu Quốc Tử Giám, chia sẻ những hiểu biết sâu sắc về di sản văn hóa phong phú của Việt Nam với Đệ nhất phu nhân Pháp”. Đọc thêmQuảng bá hình ảnh Việt Nam qua những chuyến công du của lãnh đạo thế giới Vai trò của tổng bí thư trong “định hình chính sách đối ngoại” Ngoài việc khẳng định quyền lực lãnh đạo thực sự ở Việt Nam, những chuyến công du nước ngoài của ông Tô Lâm, với tần suất dày đặc hơn so với người tiền nhiệm, còn nằm trong định hướng Hội nhập quốc tế trong tình hình mới, được quy định trong Nghị quyết số 59 (ngày 24/01/2025) và được cổng thông tin Chính phủ nhấn mạnh ngày 16/09 là “quyết sách quan trọng, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước”. Một mặt, Nghị quyết đưa ra hướng dẫn củng cố mối quan hệ “hữu nghị truyền thống” lâu đời của Việt Nam với Nga, Cuba, Bắc Triều Tiên. Mặt khác, Nghị quyết cũng cho thấy Việt Nam đang chủ động hơn trong các vấn đề quốc tế. Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, phân tích : Nghị quyết số 59 lưu ý rằng hội nhập quốc tế đòi hỏi “chủ động, tích cực và dũng cảm” để thúc đẩy các mạng lưới đối tác đã được thiết lập, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, củng cố lòng tin chính trị và giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu thông qua hợp tác hòa bình, tất cả đều trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Nghị quyết số 59 cũng củng cố một trong những mục tiêu quan trọng của hội nhập quốc tế - duy trì môi trường hòa bình và ổn định để Việt Nam có thể phát triển kinh tế. Ví dụ chuyến công du Bình Nhưỡng của tổng bí thư Tô Lâm cũng được coi là nhằm trong chiến lược “bảo vệ đất nước từ sớm và từ xa, trước khi đất nước lâm nguy” phù hợp với chủ trương của Nghị quyết số 59, theo nhận định của giáo sư Carl Thayer : “Nếu ông Tô Lâm đến thăm Bình Nhưỡng, ông có thể sẽ tìm hiểu xem Việt Nam có thể đóng vai trò ngoại giao và chính trị nào trong bất kỳ tiến trình hòa bình nào trên bán đảo Triều Tiên. Việt Nam có lợi ích thiết yếu trong việc duy trì ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Bất kỳ sự suy giảm nào trong hiện trạng, dẫn đến đối đầu giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Nga, sẽ đẩy Việt Nam ra ngoài lề và gây khó khăn cho quan hệ với các cường quốc”. Đọc thêmTổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm công du Mông Cổ, Ireland và Pháp Trong số 5 quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh được coi là một trong những trụ cột và là “một nội dung rất quan trọng”, theo phát biểu ngày 16/09 của ông Lê Hoài Trung, lúc đó là quyền ngoại trưởng. Ngoài ra, Việt Nam “chuyển từ xin nhận, gia nhập, tham gia sang chủ động đóng góp và xây dựng, định hình và sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm vào công việc chung của cộng động quốc tế”. Sự kiện Hà Nội đăng cai tổ chức Lễ mở ký Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm mạng ngày 25/10/2025, được Việt Nam coi là “dấu mốc lịch sử không chỉ với cộng đồng quốc tế mà còn khẳng định vai trò vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”. Trang VnExpress đưa tin “các nước đánh giá cao vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Việt Nam thông qua sáng kiến đăng cai Lễ mở ký”. Nhân dịp này, tổng bí thư Tô Lâm đã tiếp tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres. Cho dù “hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân” nhưng được thực hiện “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước”. Trong tiến trình này, tổng bí thư không chỉ còn muốn đứng đầu đảng, giữ vai trò về tư tưởng, mà là một nhà lãnh đạo cao nhất đất nước. Hình ảnh mới này đang được ông Tô Lâm làm cho các đối tác phương Tây quen dần, theo nhận định của tiến sĩ Vũ Khang, Đại học Boston : Đối với các đối tác phương Tây, Việt Nam đã đặt các đối tác phương Tây vào vị trí phải công nhận tính chính danh và sự ngang hàng của vị trí tổng bí thư với các vị trí nguyên thủ quốc gia qua các cuộc gặp cấp cao. Đây cũng là một di sản của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ông đã thành công bắt Mỹ phải công nhận tổng bí thư là ngang hàng với chức tổng thống Mỹ, từ đó mở ra các nước phương Tây khác cũng chấp nhận theo. Điều này chứng tỏ đây là một chính sách đường dài chứ không phải ngắn hạn cho kỳ Đại hội Đảng sắp tới, và dù ai ở vị trí tổng bí thư đi chăng nữa thì cũng sẽ được kế thừa di sản này.
    --------  
  • Lịch sử phát triển thành phố Sài Gòn: Dựa trên thế mạnh sông nước
    Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có  hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương,  mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.”  Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng  lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế.  Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này:  “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025,  đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp:  Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng.  Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài.  Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính.  Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn  làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21.  Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn.  Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời  hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.
    --------  

About Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Podcast website
Social
v8.0.2 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 11/25/2025 - 3:45:49 PM